Vấn đề phạt vi phạm hợp đồng bồi thường thiệt hại

Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.

Bồi thường thiệt hại vẫn phát sinh dù không có thỏa thuận giữa các bên và khi hội tụ đủ các yếu tố như: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra.
 
Tuy nhiên, vấn đề về vi phạm hợp đồng lại được quy định khác nhau trong thương mại và trong dân sự. Theo quy định của pháp luật thương mại thì tại Điều 301 Luật thương mại 2005 có quy định: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”.
 
Như vậy, theo quy định của Luật thương mại 2005 thì vấn đề về phạt vi phạm hợp đồng là do các bên thỏa thuận tuy nhiên không được vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng vi phạm, trừ trường hợp vi phạm hợp đồng dịch vụ giám định.
 
Nhưng theo quy định tại Điều 422 Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định về vấn đề phạt vi phạm hợp đồng, như sau:
 
1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
 
2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận.
 
3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
 
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
 
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì vấn đề phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, do đó mà mức phạt vi phạm của hợp đồng dân sự không bị khống chế mà hoàn toàn do các bên thỏa thuận với nhau.
 
Về vấn đề bồi thường thiệt hại thì trong Luật thương mại năm 2005 đã quy định về vấn đề này, cụ thể tại Điều 302 của luật này có quy định:

“1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
 
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.
 
Do đó, việc bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra đối với trường hợp có hành vi vi phạm hợp đồng. Việc bồi thường sẽ dựa trên những thiệt hại thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do bên vi phạm gây ra.
 
Trong Bộ luật dân sự vấn đề bồi thường thiệt hại không chỉ là do có hành vi vi phạm hợp đồng tức là bồi thường trong hợp đồng mà còn đặt ra cả vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, mặc dù là hành vi gây ra thiệt hại không được quy định trong hợp đồng nhưng người gây ra thiệt hại này vẫn phải bồi thường.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì tài Điều 307 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
 
“1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại vè vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần.
 
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất ật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm cả tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút.
 
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại”.
 
Tuy nhiên, trong Bộ luật dân sự 2005 thì vấn đề bồi thường thiệt hại được quy định khá rộng cả bồi thường trong hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng. Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được Bộ luật dân sự quy định từ Điều 604 - Điều 607 BLDS, theo đó vấn đề bồi thường đặt ra đối với người có trách nhiệm phải bồi thường và căn cứ và năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người đó… Tuy nhiên, pháp luật dân sự cũng có quy định trong một số trường hợp cụ thể thì phải bồi thường thiệt hại (từ Điều 613 - Điều 630 BLDS).
 
Từ đó chúng ta thấy vấn đề về phạt vi phạm và vấn đề về bồi thường thiệt hại được quy định khá chặt chẽ và khá rộng trong cả luật thương mại lẫn luật dân sự. Tùy thuộc và hành vi vi phạm, năng lực, lỗi và hậu quả của hành vi vi phạm đó mà mức độ bồi thường trong mỗi trường hợp là khác nhau.